Bài viết này là một case study về tiềm năng của việc điều chỉnh thu nhập theo quy định của Nguyên tắc kế toán được thừa nhận (GAPP) và vai trò của phương tiện truyền thông trong hậu vụ scandal Eron tại phố Wall. Chúng ta sẽ tập trung vào quyết định của tập đoàn Cardinal Health ( Mã là CAH tại Ủy ban Chứng khoán New York) để ghi lại thu nhập từ vụ dàn xếp trước khi nó được hoàn thành, và câu hỏi đặt ra là tại sao sự kiện này lại trở thành một chủ đề nóng trên các bản tin.
TỔNG QUAN
Tập đoàn Cardinal Health đã tham gia vào yêu sách chống độc quyền đối với các nhà sản xuất vitamin trong việc đặt giá CAH quá cao trong những năm trước đó. Trong ba quý thu nhập giữa tháng 12 năm 2000 và tháng 6 năm 2002 (kéo dài trong 2 năm tài chính), CAH ghi nhận số tiền từ vụ dàn xếp đó vào doanh thu của mình trước cả khi thương vụ này xảy ra. Một bài viết trong ngày 02 tháng 4 năm 2003, số báo của tờ the Wall Street Journal chỉ ra rằng CAH ghi nhận các khoản này để đạt được mức thu nhập ước tính được đồng thuận.
Vậy các công ty đã làm điều gì sai?
VẬY CÁC CÔNG TY ĐÃ LÀM ĐIỀU GÌ SAI?
Đối với các nhà đầu tư Joe Friday, điều sau đây là sự thật. Số tiền của thương vụ này đã được ghi lại trong ba quý như sau:
- Báo cáo quý mẫu 10-Q tháng 12 năm 2000: 10 triệu USD (khoảng 0,015 USD trên một cổ phiếu) đã được ghi nhận nhưng số tiền không được tiết lộ và không có chi tiết nào khác được cung cấp.
- Báo cáo quý mẫu 10-Q tháng 9 năm 2001: 12 triệu USD (khoảng 0,017 USD trên một cổ phiếu) được ghi nhận, và một bản cáo bạch trong Thảo luận & Phân tích Quản lý đã ghi lại "ghi nhận của việc thu hồi tối thiểu kỳ vọng sẽ được nhận cho yêu sách chống lại các nhà sản xuất vitamin ...", nhưng không có khoản tiền nào hay các chi tiết khác được tiết lộ.
- Báo cáo thường niên mẫu 10-K tháng 6 năm 2002: Một khoản 13.3 triệu USD bên ngoài (khoảng 0,19 USD trên một cổ phiếu) được ghi nhận (để phản ánh đầy đủ các phán quyêt) và các khoản thu trước đây đã được trình bày chi tiết.
Có hai điều cần được lưu ý từ một loạt các trường hợp:
- Thứ nhất, số tiền thực tế nhận được (35,3 triêu USD) cao hơn nhiều so với số tiền được ghi nhận từ trước tháng 6 năm 2002 (22 triệu USD), điều này có thể được xem như là bằng chứng cho nguyên tắc thận trọng của CAH về những lợi ích kỳ vọng.
- Thứ hai, đến tháng sáu năm 2002, các nhà đầu tư không hề có bất kỳ thông tin nào để đánh giá các quyết định hạch toán hoặc xác định tác động trên mỗi cổ phiếu. Theo CAH, công ty đã không tiết lộ hầu hết các chi tiết cho đến tận những báo cáo thường niên mẫu10-K năm 2002 vì hai lý do chính: thứ nhất, các công ty không muốn để cho các bị cáo biết được về những gì họ kỳ vọng nhận được, và thứ hai, từ quan điểm của công ty, số tiền không đủ quan trọng.
KIỂM TRA TÍNH TIN CẬY
Dù các trường hợp pháp lý đã đạt đến mức mà các kết quả là tin cậy thì vẫn có khả năng tồn tại những khía cạnh không chắc chắn nhất. Nói chung, nguyên tắc thận trọng kế toán yêu cầu những phán quyết tiềm tàng từ vụ kiện không được ghi lại cho đến khi thỏa thuận được thông qua và các giấy tờ được ký kết.
Tuy nhiên, do các tòa án đã kết luận các bị cáo là có tội và những công ty có khả năng tài chính để thanh toán các khoản dự kiến, các luật sư và kế toán CAH đã nhận ra rằng những tuyên bố chống độc quyền đã đạt đến mức hợp lý rằng việc các quỹ sẽ được nhận là điều chắc chắn. Do đó, theo nguyên tắc phù hợp của GAAP, số tiền phải được ghi nhận trong quý mà nó được coi là một khoản chắc chắn. (Cần lưu ý rằng kiểm toán viên của CAH tại thời điểm đó là Arthur Andersen.)
KIỂM TRA TÍNH TRỌNG YẾU
Tuy nhiên tính trọng yếu là một khái niệm gây tranh cãi từ lâu. Có thời điểm, tính trọng yếu áp dụng rộng rãi theo GAAP là bất cứ thứ gì mà có tỷ lệ nhất định (ví dụ dưới 5%) thì được coi là không trọng yếu và không nhất thiết phải công khai. Hoặc các công ty sẽ phải trình bày về tất cả mọi thứ và các hồ sơ SEC sẽ rất dài và khó đọc. Gần đây hơn các định nghĩa đã chuyển sang là bất cứ thứ gì hợp lý có thể ảnh hưởng tới thị trường, điều này thật sự rất khó khăn để xác định bởi thứ ảnh hưởng thị trường chỉ có thể xác định sau khi thực tế việc di chuyển đã xảy ra.
Đối với nhiều nhà đầu tư và ít nhất là với giới tài chính Mỹ, một hoặc hai penny là đáng kể và được kỳ vọng rằng có thể nó sẽ tác động đến giá của một cổ phiếu. Từ góc nhìn doanh nghiệp, số tiền được ghi nhận không thực sự quan trọng. Tổng số tiền ghi nhận (35,3 triệu $) ltương ứng với 0,1% tổng doanh thu năm 2002, 3,2% tổng thu nhập ròng năm 2002 và 2,6% thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) năm 2002.
Các bài viết của tờ WSJ nói rằng CAH ghi nhận những doanh thu để đạt được mức thu nhập kỳ vọng nhưng nếu điều chỉnh thu nhập là cố tình, một công ty lớn như CAH có nhiều cơ hội để gian lận một vài xu mà hợp lý hóa theo GAAP. Như vậy, vấn đề này có thể là một trong những điểm mơ hồ trong GAAP cần những kiến thức chi tiết để đánh giá những lời cáo buộc.
Thậm chí nếu CAH đã khá ra sức trong việc chấp nhận những phán quyết, các khoản ghi nhận sớm đã không đạt tổng số tiền được phán quyết để trao cho công ty, điều này chỉ ra rằng công ty phần nào đã khá thận trọng trong việc dự báo bồi khoản ước tính. CAH ghi nhận 10 triệu USD và 12 triệu USD trong quý kết thúc tháng 12 năm 2000 và tháng 9 năm 2001 tương ứng. Số tiền phán quyết này thực tế là hơn 13 triệu USD và được ghi nhận trong tháng 6 năm 2002.
LỜI PHÁN QUYẾT
Bất kỳ công ty lớn có một số lượng lớn chi tiêu tùy ý có thể được sử dụng để điều chỉnh thu nhập. Một nhà đầu tư hoài nghi có thể tập trung vào bất kỳ một trong số các khoản nào đó để đưa ra một yêu cầu điều chỉnh thu nhập đối với bất kỳ công ty lớn nào. Để xác định liệu một công ty có điều chỉnh thu nhập hay không, nhà đầu tư cần phải xem xét đạo đức chung của doanh nghiệp . Để làm điều này, bạn cần phải nhìn vào cách công ty đã ứng xử với những vấn đề đạo đức và mức độ chi tiết trong hồ sơ khai thuế của công ty.
Trong trường hợp CAH, rất khó để chứng minh một cách chắc chắn rằng công ty này có chủ đích "xào nấu" chỉ số EPS. Hồ sơ của công ty chỉ ra rằng công ty đã liên tục cung cấp đầy đủ chi tiết theo yêu cầu của GAAP. Sự hạch toán đầy đủ về việc ghi nhận vụ dàn xếp vitamin đã được cung cấp trong báo cáo thường niên mẫu 10-K năm 2002.
Cần lưu ý rằng vấn đề này đã nảy sinh trong một môi trường hoàn toàn khác với môi trường ra quyết định. Thời buổi ngày nay, sau vụ scandal của Eron phố Wall, đã khiến cho việc hoài nghi trở nên phổ biến hơn vì lẽ đó, người ta thường khuyến nghị là một doanh nghiệp không nên ghi nhận bất cứ điều gì trừ khi được cung cấp đầy đủ các các chi tiết. Tuy nhiên, tại thời điểm ra quyết định đó, công ty đã hành động phù hợp với quy định hiện hành và theo lời khuyên của luật sư và kế toán.
TẠI SAO LẠI LÀ BÂY GIỜ?
Bất kể bạn nghĩ CAH là phạm tội hay không, ai cũng tò mò rằng tại sao sự kiện này lại trở thành một tin tức trọng đại đến thế đến gần hai năm sau đó. Có ít nhất hai lý do tại sao vụ này lại lên mặt báo WSJ:
- Các vụ bán khống đã thực sự bị đe dọa. Cổ phiếu có một xuống dốc liên tục kể từ tháng 11 năm 2002 nhưng bắt đầu phục hồi vào ngày 14 tháng 3. Người ta hiểu rằng những vụ bán khống này có thể đã cố gắng đưa những thông tin không lành mạnh vào báo chí để cứu vãn các vị thế của họ (trường hợp này đã không thành công bởi vì chứng khoán tiếp tục phục hồi).
- Các phương tiện truyền thông liên tục săn tin ở mức cao độ. Cũng giống như các thị trường ở tại thời điểm đó, các phương tiện báo chí đã chuyển từ sôi động xuống trầm lắng. Những bài viết về cách cô lập cổ phiếu vốn hóa nhỏ mà bất kỳ nhà phân tích nào cũng không đi theo, đăng những khoản thu nhập ấn tượng nhưng không nói về câu chuyện của một "Enron” nào khác. Trong khi những câu chuyện này rất hữu ích bởi vì chúng dạy các nhà đầu tư bằng cách tập trung vào các vấn đề trọng yếu thì quan điểm của những bài viết này bị bóp méo và đôi khi lại làm ảnh hướng đến công ty có vốn chủ bị lấy làm đối tượng nghiên cứu.
Theo: Saga